Sức mạnh đại đoàn kết dân tộc trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước

2025-01-23 17:42:14

Thời gian trôi qua, chúng ta càng nhận thức đầy đủ, toàn diện, sâu sắc hơn về chiến công mang tầm vóc thời đại này. Nhân dịp kỷ niệm 44 năm Ngày Giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975 - 30/4/2019), Thông tấn xã Việt Nam xin trân trọng giới thiệu bài viết: “Sức mạnh đại đoàn kết dân tộc trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975)” của Phó Giáo sư, Tiến sĩ Hồ Khang, nguyên Phó Viện trưởng Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam.

Chiều 7/5/1954, lá cờ "Quyết chiến - Quyết thắng" của quân đội ta tung bay trên nóc hầm tướng De Castries. Ảnh: TTXVN

Sau thất bại tại Điện Biên Phủ (5/1954), thực dân Pháp buộc phải ký kết Hiệp định Geneve (21/7/1954) công nhận độc lập, chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ ba nước Đông Dương, rút quân về nước. Nhưng ngay sau đó, đế quốc Mỹ tìm cách thay chân thực dân Pháp tiến hành chiến tranh xâm lược nhằm biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới, một căn cứ quân sự phục vụ cho chiến lược toàn cầu phản cách mạng. Đất nước ta tạm thời bị chia cắt làm hai miền với hai chế độ chính trị - xã hội đối lập nhau: miền Bắc hoàn toàn giải phóng, miền Nam còn nằm dưới sự cai trị của chủ nghĩa đế quốc, tay sai.

Thông qua các hình thức viện trợ, Mỹ đã dựng lên chính quyền, quân đội Sài Gòn làm công cụ, ra sức đàn áp phong trào yêu nước của đồng bào miền Nam. Đặc biệt, từ năm 1965, Mỹ ồ ạt đưa quân viễn chinh, quân một số nước đồng minh cùng nhiều loại vũ khí, trang bị cùng phương tiện chiến tranh hiện đại vào trực tiếp tham chiến ở miền Nam, đồng thời mở cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân ra miền Bắc Việt Nam. Nhân dân ta phải đương đầu với kẻ thù có tiềm lực kinh tế, quân sự lớn hơn gấp nhiều lần (Mỹ đã chi cho cuộc chiến tranh Việt Nam 676 tỷ đôla; huy động lúc cao nhất gần 55 vạn quân viễn chinh, 7 vạn đồng minh, trực tiếp chiến đấu và làm nòng cốt cho khoảng 1 triệu quân đội Sài Gòn; sử dụng 7,8 triệu tấn bom đạn-nhiều hơn lượng bom đạn trong bất cứ cuộc chiến tranh nào trước đó). 

Sau một thời gian tìm tòi, thể nghiệm về đường lối, trên tinh thần độc lập, tự chủ, vượt qua những tác động tiêu cực từ bối cảnh quốc tế, tháng 1/1959, Hội nghị lần thứ 15 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam đã xác định con đường phát triển cơ bản của cách mạng nước nhà là: phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đồng thời đẩy mạnh cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam nhằm thực hiện mục tiêu chung là giải phóng hoàn toàn miền Nam, bảo vệ miền Bắc, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, tạo điều đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Đường lối này sau được Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III (tháng 9/1960) chính thức thông qua, đáp ứng đúng nguyện vọng tha thiết của đồng bào cả nước, có ảnh hưởng quyết định đến thắng lợi cuối cùng của chiến tranh.

Lá cờ cách mạng tung bay trên nóc trụ sở Bộ Tổng tham mưu Ngụy quyền Sài Gòn ngày 30/4/1975. Ảnh: TTXVN

Trên cơ sở đường lối kháng chiến đúng đắn, phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, Trung ương Đảng đề ra phương thức tập hợp quần chúng rất sáng tạo, đó là thành lập các mặt trận dân tộc thống nhất riêng phù hợp với đặc điểm, điều kiện ở từng miền, lấy liên minh giai cấp công - nông làm nền tảng (Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ở miền Bắc; Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam, Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình... ở miền Nam). Tuy mục tiêu, cương lĩnh cụ thể không giống nhau, hình thức tổ chức cũng như cơ cấu, thành phần có nhiều điểm khác nhau nhưng đều hướng đến mục đích tập hợp toàn dân thành một khối thống nhất theo tư tưởng “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công” của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đó cũng là cơ sở bảo đảm cho sự lãnh đạo vững bền của Đảng, đồng thời phân hóa, cô lập cao độ kẻ thù. Chính Bộ Quốc phòng Mỹ sau này thừa nhận rằng: Nhờ chiến lược đoàn kết đa dạng, phía Việt Nam dân chủ cộng hòa đã nắm được các ngọn cờ dân tộc và chống thực dân, do đó Mỹ và chính phủ Việt Nam cộng hòa (chính quyền Sài Gòn) chỉ còn lại có độc ngọn cờ chống cộng. 

Từ khối đại đoàn kết thống nhất, sức mạnh chiến tranh nhân dân Việt Nam được nhân lên gấp bội, biến thành hành động thực tiễn qua những phong trào thi đua sôi nổi khắp cả nước, diễn ra trong mọi hoàn cảnh ác liệt bởi chiến tranh. Điển hình như các phong trào: đơn vị vũ trang “Ba nhất”, thanh niên “Ba sẵn sàng”, phụ nữ “Ba đảm đang”, giáo viên và học sinh thi đua “Hai tốt”, thiếu niên nhi đồng “Làm nghìn việc tốt”... ở miền Bắc; các phong trào “Bám đất, giữ làng”, “Một tấc không đi, một li không dời”, “Thi đua giết giặc lập công”, “Tìm Mỹ mà đánh, tìm ngụy mà diệt”... ở miền Nam.

Bằng sức mạnh đó, nhân dân miền Bắc vừa kiên cường chiến đấu, đánh bại hoàn toàn hai cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân của đế quốc Mỹ trong những năm 1965 - 1968 và 1972 - 1973 (bắn rơi gần 4.000 máy bay các loại; bắn chìm, bắn cháy 268 tàu chiến, tàu biệt kích), vừa đẩy mạnh sản xuất, ra sức chi viện cho tiền tuyến lớn miền Nam. Toàn bộ cuộc chiến tranh, miền Bắc đã chuyển vào chiến trường hàng triệu tấn vật chất cùng hàng triệu thanh niên bổ sung cho lực lượng chiến đấu. Sự chi viện từ miền Bắc cho miền Nam không chỉ tạo nên sức mạnh, phục vụ tốt nhiệm vụ chiến đấu, mà còn đáp ứng yêu cầu xây dựng vùng giải phóng trên tất cả các mặt: kinh tế, quốc phòng, văn hóa, giáo dục, y tế... và chuẩn bị cho việc tiếp quản vùng giải phóng khi chiến tranh kết thúc. Đó thực sự là một trong những biểu tượng rõ nét cho tình đoàn kết của nhân dân miền Bắc đối với miền Nam, tô đậm thêm sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.

Xe tăng Quân giải phóng tiến vào Dinh Độc Lập, trưa 30/4/1975, kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Ảnh: Trần Mai Hưởng/TTXVN

Nguồn bài viết : SBO Thể Thao

Top